Scholar Hub/Chủ đề/#hệ số tương đương/
Hệ số tương đương là một khái niệm trong toán học được sử dụng để diễn đạt mối quan hệ tương đương giữa các đại lượng hay các phương trình. Trong trường hợp của...
Hệ số tương đương là một khái niệm trong toán học được sử dụng để diễn đạt mối quan hệ tương đương giữa các đại lượng hay các phương trình. Trong trường hợp của đa thức, hai đa thức được xem là tương đương nếu chúng có cùng các hệ số. Ví dụ, hai đa thức x^2 + 3x + 2 và x^2 + 2x + 1 được coi là tương đương vì các hệ số của chúng đều là 1, 2 và 1.
Hệ số tương đương đề cập đến việc hai đại lượng hoặc hai phương trình có cùng giá trị của hệ số. Điều này có nghĩa là dù hai đại lượng hay hai phương trình có dạng khác nhau, nhưng nếu các hệ số tương ứng của chúng giống nhau, thì chúng được coi là tương đương.
Trong trường hợp đa thức, hệ số của đa thức được xác định bởi các hệ số của các mục đơn vị khác nhau. Ví dụ, đa thức P(x) = 2x^2 + 3x + 4 có các hệ số lần lượt là 2, 3 và 4. Đây là các hệ số có thể so sánh với đa thức khác để xác định xem chúng có tương đương hay không.
Ví dụ khác, xét hai đa thức P(x) = x^2 + 3x + 2 và Q(x) = x^2 + 2x + 1. Dù hai đa thức này có dạng khác nhau, nhưng có thể thấy rằng các hệ số tương ứng của chúng là giống nhau: hệ số của x^2 là 1, của x là 3 và của hằng số là 2. Do đó, chúng được coi là tương đương.
Hệ số tương đương cũng cần được xác định trong trường hợp phương trình. Ví dụ, xét hai phương trình 2x + 1 = 3 và 4x - 1 = 5. Để xác định xem hai phương trình này có tương đương hay không, ta xem xét hệ số của x và hệ số hằng số. Trong trường hợp này, cả hai phương trình đều có hệ số của x là 2 và hệ số hằng số là 1. Do đó, có thể kết luận rằng hai phương trình này tương đương.
Xin lỗi vì nhầm lẫn trước đó. Hệ số tương đương không liên quan đến mối quan hệ giữa các hệ số của đa thức hoặc phương trình, mà thay vào đó liên quan đến mối quan hệ giữa các đại lượng đó.
Trong toán học, hai đại lượng A và B được coi là tương đương nếu chúng có cùng giá trị hoặc cùng tính chất quan trọng. Điều này có thể áp dụng cho các khái niệm khác nhau như tam giác tương đương, đa giác tương đương, tương đương vị trí, tương đương tứ giác, và nhiều khái niệm khác.
Ví dụ, trong tam giác, hai tam giác được coi là tương đương nếu chúng có cùng các góc và các cạnh tương tự. Điều này có nghĩa là chúng có cùng độ dài các cạnh tương ứng và độ lớn các góc tương ứng là bằng nhau.
Trong đa giác, hai đa giác được coi là tương đương nếu chúng có cùng số cạnh và các góc chính tương tự. Điều này có nghĩa là số cạnh và độ lớn các góc chính của chúng là tương đương.
Tương tự, các khái niệm tương đương khác như tương đương vị trí, tương đương tứ giác cũng được xác định dựa trên tính chất tương tự giữa các hình học.
Vì vậy, hệ số tương đương không áp dụng cho đa thức và phương trình, mà áp dụng cho các đại lượng và hình học khác trong toán học.
Điều chỉnh hệ số tương đương của động cơ chạy bằng hỗn hợp biogas-syngas-hydrogen trong hệ thống năng lượng tái tạo hybridTỉ lệ nhiên liệu/ không khí cung cấp cho động cơ làm việc trong hệ thống năng lượng tái tạo hybrid phải linh hoạt để giữ cho hệ số tương đương của hỗn hợp nằm trong vùng tối ưu. Khi cố định thành phần biogas và thay đổi thành phần syngas hay hydrogen thì tỉ lệ nhiên liệu/ không khí ít thay đổi, nhưng khi cố định thành phần syngas hay hydrogen và thay đổi thành phần biogas thì tỉ lệ nhiên liệu/ không khí thay đổi đáng kể. Khi tăng thành phần hydrogen trong hỗn hợp nhiên liệu thì chất lượng quá trình cháy được cải thiện. Động cơ đánh lửa cưỡng bức truyền thống có thể chuyển thành động cơ sử dụng nhiên liệu khí có thành phần nhiên liệu thay đổi bằng hệ thống phun nhiên liệu đơn giản, sử dụng vi điều khiển Arduino, cảm biến Hall và servo motor. Mối quan hệ giữa độ mở bướm ga và thời gian phun đối với động cơ tĩnh tại có thể được xác định trên đường đặc tính điều tốc và được cài đặt vào vi điều khiển để tự động điều chỉnh độ mở bướm ga theo tải cản.
#Nhiên liệu tái tạo #hệ thống năng lượng lai #Hydrogen #Biogas #Syngas
Chuyển đổi động cơ tĩnh tại truyền thống thành động cơ phun xăng trên đường nạpDựa trên mô phỏng giản đồ phun nhiên liệu và đánh lửa, hệ thống điều khiển điện tử gồm ECU APITech mở cùng với bộ cảm biến của xe gắn máy EFI được lắp đặt để chuyển động cơ xăng truyền thống thành động cơ phun xăng. Mô phỏng cho thấy ở tốc độ thấp, hệ số tương đương ổn định ngay trong kỳ nạp nhưng ở tốc độ cao, hệ số tương đương tăng nhẹ và đạt giá trị ổn định vào cuối kỳ nén. Công chỉ thị chu trình giảm khi tăng tốc độ động cơ và đạt giá trị cực đại tại góc đánh lửa sớm tối ưu. Góc đánh lửa sớm tối ưu tăng tuyến tính theo tốc độ động cơ ở một chế độ tải cho trước tuy nhiên ứng với một tốc độ cho trước, góc đánh lửa sớm chỉ giảm nhẹ theo tải động cơ. Cùng chế độ tải, khi tăng tốc độ động cơ thì góc phun tăng nhưng không tuyến tính. Động cơ sau khi cải tạo có mức độ ổn định tốc độ và khả năng đáp ứng tải được cải thiện so với động cơ nguyên thủy
#Động cơ phun xăng #Giản đồ phun nhiên liệu #Giản đồ đánh lửa #Hệ số tương đương #Phun nhiên liệu vào đường nạp
Liên quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân đái tháo đường type 2Tóm tắt
Mục tiêu: Khảo sát mối liên quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với một số yếu tố nguy cơ tim mạch và đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 điều trị tại Bệnh viện Quân y 175. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 118 bệnh nhân đái tháo đường type 2 điều trị tại Khoa Tim mạch, Bệnh viện Quân y 175 từ tháng 04/2018 đến tháng 03/2019. Kết quả: Nồng độ hs-CRP huyết tương có mối tương quan thuận mức độ ít với tuổi r = 0,256, p<0,01 và BMI với r = 0,233, p<0,05. Đồng thời, nồng độ hs-CRP có mối tương quan nghịch mức độ ít với HDL-C với r = -0,29, p<0,05. Nồng độ trung bình hs-CRP huyết tương tăng dần theo số lượng yếu tố nguy cơ, trong đó nhóm bệnh nhân có 4 yếu tố nguy cơ có nồng độ hs-CRP huyết tương trung bình cao nhất với 12,16 ± 32,85mg/L, nhóm có 1 yếu tố nguy cơ thấp nhất với 2,61 ± 4,68mg/L, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Tăng hs-CRP có mối liên quan độc lập với yếu tố nguy cơ protein niệu dương tính với tỉ suất chênh là 6,282, p<0,05. Nồng độ trung bình hs-CRP huyết tương giữa các phân nhóm cholesterol máu theo mục tiêu điều trị (tốt, chấp nhận, kém) khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Kết luận: Nồng độ hs-CRP huyết tương tương quan thuận mức độ ít với tuổi và BMI, tương quan nghịch mức độ ít với HDL-C. Tăng hs-CRP liên quan độc lập với nguy cơ protein niệu dương tính. Có sự khác biệt có ý nghĩa về nồng độ trung bình hs-CRP huyết tương giữa các phân nhóm cholesterol máu theo mục tiêu điều trị.
Từ khóa: hs-CRP, yếu tố nguy cơ tim mạch, đái tháo đường type 2.
#hs-CRP #yếu tố nguy cơ tim mạch #đái tháo đường type 2
Thiết lập giản đồ cung cấp nhiên liệu cho động cơ biogas-xăngBài báo trình bày cách tiếp cận mới trong xây dựng giản đồ động cơ (Engine Map) dựa trên mô phỏng độ chân không trên đường nạp. Kết quả cho thấy độ chân không cực đại đạt được ở khu vực gần họng venturi và tăng mạnh theo tốc độ động cơ. Khi đóng nhỏ bướm ga, sự phân bố áp suất chân không trên đường nạp không thay đổi nhiều so với khi bướm ga mở hoàn toàn nhưng giá trị tuyệt đối áp suất chân không giảm. Hệ số tương đương của hỗn hợp giảm đáng kể khi tăng tốc độ động cơ hoặc/và khi mở rộng bướm ga nên giải pháp cấp ga bằng một van chân không phổ biến hiện nay không phù hợp với động cơ chạy bằng biogas nghèo. Trong công trình này chúng tôi đề xuất hệ thống cấp nhiên liệu hybrid biogas-xăng. Ở bất kỳ chế độ công tác nào của động cơ, hệ số tương đương của hỗn hợp biogas-không khí đều giảm khi độ chân không trung bình tại họng venturi tăng. Đó là chính thông số được sử dụng để điều khiển việc cung cấp xăng bổ sung.
#Biogas #Engine Map #Nhiên liệu tái tạo #Động cơ biogas #Hệ số tương đương
Tư tưởng thân dân trong đường lối trị quốc của các nhà nước quân chủ Việt Nam thời Lý-Trần và Lê sơ (thế kỷ XI-XV) Thiết chế chính trị Việt Nam thời kỳ quân chủ không tồn tại chế độ dân chủ. Tuy nhiên, có một thực tế, các triều đại phong kiến ở nước ta đều coi trọng dân chúng, xây dựng bệ đỡ xã hội dựa trên sự đồng thuận và hậu thuẫn của người dân. Xét bản chất, đó chính là vì sự tồn vong của vương triều và chế độ. Tư tưởng “dĩ dân vi bản”, theo thời gian có thể thay đổi về nội dung hay hình thức biểu hiện, nhưng vẫn giữ nguyên giá trị. Ngày nay, “lấy dân làm gốc”, “phát huy quyền làm chủ của nhân dân” là một chủ trương đúng đắn, trở thành mục tiêu và động lực đổi mới của Nhà nước ta-Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình thực hiện cũng bộc lộ không ít bất cập và hạn chế. Từ tiếp cận sử học, thông qua khảo cứu và phân tích tư liệu chính sử, cổ luật, bài viết này tập trung nghiên cứu tư tưởng và chính sách cai trị dân của các triều đại Lý-Trần và Lê sơ ở Việt Nam thế kỷ XI-XV. Nghiên cứu cho thấy, tuy cùng xuất phát từ tư tưởng trọng dân, nhưng với hai quan điểm chính trị và phương thức quản lý khác nhau đã dẫn tới những kết quả hoàn toàn trái ngược. Những kinh nghiệm và bài học lịch sử được rút ra sẽ có đóng góp nhất định cho thực tiễn ở nước ta hiện nay.
#Tư tưởng thân dân #chế độ quan liêu #thời Lý-Trần #thời Lê sơ
NGHIÊN CỨU MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA RỐI LOẠN CHỨC NĂNG TÂM TRƯƠNG THẤT TRÁI VỚI NỒNG ĐỘ CORTISOL MÁU Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2Đặt vấn đề: Biến chứng tim mạch ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 cần được phát hiện sớm và rối loạn chức năng tâm trương thất trái là tổn thương cơ tim sớm diễn tiến đến suy tim. Mục tiêu nghiên cứu: 1) Khảo sát tình hình rối loạn chức năng tâm trương thất trái và một số yếu tố liên quan. 2) Kháo sát nồng độ cortisol máu ở bệnh nhân rối loạn chức năng tâm trương thất trái. 3) Tìm hiểu mối tương quan giữa cortisol máu với rối loạn chức năng tâm trương thất trái. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 80 bệnh nhân đái tháo đường típ 2 được lựa chọn từ 40-70 tuổi, điều trị nội trú tại Khoa Nội tiết, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ từ tháng 9/2022 đến tháng 5/2023. Kết quả: Rối loạn chức năng tâm trương thất trái ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 là 26,3%, độ I chiếm 33,3%, độ II 38,1%, độ III 28,6%. Nhóm có vi đạm niệu có nguy cơ rối loạn chức năng tâm trương thất trái cao hơn khoảng 3,7 lần nhóm bình thường (OR: 3,7, p<0.05). Nồng độ cortisol máu ở BN có rối loạn chức năng tâm trương thất trái cao hơn nhiều (giá trị trung vị là 19,7 so với 8,2), khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,01). Hệ số tương quan là 0,48 thể hiện có mối tương quan thuận và chặt chẽ giữa cortisol máu với tỷ số E/e’trên siêu âm (p<0.01). Kết luận: Bệnh nhân đái tháo đường típ 2 có cortisol máu tăng cao có thể nguy cơ rối loạn chức năng tâm trương thất trái và các yếu khác như: vi đạm niệu, thời gian mắc ĐTĐ, tuổi cũng có liên quan đến mức độ nặng của rối loạn chức năng tâm trương thất trái. Nồng độ cortisol máu ở nhóm ĐTĐ típ 2 có rối loạn chức năng tâm trương thất trái cao hơn so với bệnh nhân ĐTĐ típ 2 không có rối loạn chức năng tâm trương thất trái.
#đái tháo đường típ 2 #rối loạn chức năng tâm trương thất trái #cortisol máu #mối tương quan
MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA ĐƯỜNG KÍNH TĨNH MẠCH CHỦ DƯỚI TRÊN SIÊU ÂM VÀ ÁP LỰC TĨNH MẠCH TRUNG TÂM Ở BỆNH NHÂN SỐCĐặt vấn đề: Sốc là tình trạng rối loạn huyết động nghiêm trọng thường gặp ở bệnh nhân nguy kịch, đòi hỏi các biện pháp đánh giá dịch nhanh để hướng dẫn điều trị. Bên cạnh áp lực tĩnh mạch trung tâm, đường kính tĩnh mạch chủ dưới trên siêu âm là một phương pháp đánh giá tình trạng dịch không xâm lấn, có ích trên bệnh nhân sốc. Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát các chỉ số đường kính tĩnh mạch chủ dưới siêu âm và áp lực tĩnh mạch trung tâm ở bệnh nhân sốc, đồng thời khảo sát mối tương quan giữa đường kính tĩnh mạch chủ dưới trên siêu âm và áp lực tĩnh mạch trung tâm. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 53 bệnh nhân sốc từ tháng 3/2020-3/2021 tại Khoa Hồi sức tích cực – Chống độc Bệnh viện Đa khoa Trung Ương Cần Thơ. Kết quả: Có 84,9% bệnh nhân thở máy. 49,1% bệnh nhân có CVP lớn hơn 12cmH2O, 15,1% dưới 8cmH2O Áp lực tĩnh mạch trung tâm trung bình =13,6±6,21cmH2O. Trung bình đường kính tĩnh mạch chủ dưới lớn nhất là 17,0±3,92mm, nhỏ nhất 13,8±4,70mm. Chỉ số xẹp tĩnh mạch chủ dưới trung bình CI-IVCD% là 20,2±15,73%. Các chỉ số đường kính tĩnh mạch chủ dưới lớn nhất, nhỏ nhất và trung bình đều có mối tương quan thuận với CVP, p<0,001. Chỉ số xẹp tĩnh mạch chủ dưới CI-IVCD% có mối tương quan nghịch với CVP, p=0,008. Chỉ số xẹp tĩnh mạch chủ dưới có giá trị tốt nhất để dự đoán mức CVP dưới 8 cmH2O trong số các chỉ số đo trên siêu âm tĩnh mạch chủ dưới, với AUC=0,836; p<0,003. Kết luận: đường kính tĩnh mạch chủ dưới đo bằng siêu âm có mối tương quan tốt với CVP, trong đó chỉ số xẹp tĩnh mạch chủ dưới có giá trị tốt nhất để dự đoán tình trạng thiếu dịch.
#sốc #CVP #đường kính tĩnh mạch chủ dưới #IVCD
Cơ chế hình thành lún nứt mặt đường trên đê khi kết hợp mặt đê làm đường giao thôngTrong một thập kỷ trở lại đây, hiện tượng lún nứt mặt đê kết hợp làm đường giao thông đã trở nên phổ biến. Ở Việt Nam cũng đã có một số nghiên cứu nhằm giải thích cơ chế, từ đó phân tích nguyên nhân. Tuy nhiên, do các nghiên cứu này chỉ trong một vị trí cụ thể, nên các kết quả chỉ nêu được nguyên nhân, chưa chỉ ra cơ chế hình thành và mối quan hệ giữa các yếu tố gây ra lún nứt. Kết quả nghiên cứu này cho thấy, hiện tượng ướt-khô theo mùa của đất đắp đê có hàm lượng hạt sét, hạt bụi cao là nguyên nhân hình thành vết nứt ban đầu. Những tác động cụ thể khác tại từng vị trí xây dựng công trình như nền đất yếu, tải trọng vượt tải, biện pháp thi công v.v… là những yếu tố thúc đẩy lún nứt phát triển trên đê kết hợp đường giao thông.
#Đê kết hợp đường giao thông; cơ chế lún nứt mặt đường trên đê sông; hiện tượng khô-ướt của đất đắp thân đê.
Sử dụng thuốc có cửa sổ điều trị hẹp trong ghép tạngSử dụng thuốc ức chế miễn dịch an toàn, hiệu quả để đạt lợi ích điều trị tối ưu cho người bệnh ghép tạng là một vấn đề luôn được quan tâm. Để cân bằng an toàn - hiệu quả, nhà lâm sàng cần hiểu rõ các đặc tính về dược động học, dược lực học của thuốc, và các công cụ giúp duy trì nồng độ mục tiêu như theo dõi nồng độ thuốc, đặc biệt là với các thuốc có cửa sổ điều trị hẹp như ức chế calcineurin. Bên cạnh đó, sự ra đời của nhiều loại thuốc cùng hoạt chất dưới áp lực kinh tế cũng là một thách thức cho các nhà lâm sàng. Bài tổng quan trình bày một số khái niệm cơ bản trong sử dụng thuốc có cửa sổ điều trị hẹp, một số đặc tính của thuốc ức chế calcineurin, các yêu cầu về tính tương đương sinh học để thuốc được đưa vào sử dụng lâm sàng an toàn hiệu quả, và một số điểm cần lưu ý khi sử dụng các thuốc thay thế cho thuốc gốc nhóm ức chế calcineurin trong ghép tạng.
#thuốc ức chế calcineurin #thuốc có cửa sổ điều trị hẹp #theo dõi nồng độ thuốc #tương đương sinh học #chuyển đổi và thay thế thuốc ức chế miễn dịch
Ứng dụng mạng xã hội để hỗ trợ việc tương tác ngoài giảng đường: Một trường hợp nghiên cứu tại Khoa Kinh tế - Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Đà LạtMục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá về hiệu quả của việc sử dụng mạng xã hội để hỗ trợ việc tương tác trong giảng dạy đại học trong bối cảnh Việt Nam. Để thực hiện nghiên cứu này, một nhóm giảng viên và sinh viên tại Khoa Kinh tế - Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Đà Lạt đã thí điểm dùng mạng xã hội có tên là Edmodo để hỗ trợ công tác giảng dạy các học phần được phân công trong một năm học. Kết quả cho thấy việc sử dụng mạng xã hội giúp tăng cường hiệu quả tương tác giữa giảng viên và sinh viên, giữa giảng viên và giảng viên, và nhận được phản hồi tích cực từ cả hai phía. Kết quả nghiên cứu hàm ý rằng việc sử dụng mạng xã hội trong giảng dạy là khả thi và sẽ tác động tích cực lên hiệu quả giảng dạy. Tuy nhiên giảng viên cũng cần phải thiết kế các hoạt động và có cơ chế tưởng thưởng phù hợp để khuyến khích sinh viên tham gia tích cực hơn vào các hoạt động tương tác của môn học